Jump to content

Bong da Lien Xo va cuoc cach mang chien thuat cua Arkadyev


Recommended Posts

Sau cuộc cách mạng tháng Mười Nga thành công rực rỡ, bóng đá Liên Xô ít có sự cọ xát với những đội bóng nước ngoài mà vẫn chịu ảnh hưởng khá nhiều từ phong cách bóng đá Anh. Vậy nên trong khi thế giới chuyển dịch dần sang sơ đồ W-M của Herbert Chapman thì các đội bóng ở Liên Xô vẫn sử dụng sơ đồ 2-3-5 cổ lỗ. Theo LTD BD Anh


Starostin nhìn ra một điều rằng các đội bóng Nga gặp bất lợi do họ đã vận hành hệ thống chiến thuật lỗi thời. Để ngăn chặn cầu thủ trung phong Isodro Langara của đội tuyển xứ Basque, Starostin kéo một tiền vệ trung tâm về để tạo nên hàng phòng ngự ba người. Trước đó, đội tuyển Spartak Moscow từng thử phòng ngự bằng một kiểu chiến thuật W-M trong một chuyến du đấu tại Na Uy nhưng sau trận thua Dynamo Moscow, đội tuyển lại trở về sơ đồ 2-3-5 thịnh hành ở Liên Xô. Trước tình thế không thể làm khác được, bộ ba hậu vệ của Starostin cuối cùng cũng thành công khi đánh bại đội tuyển xứ Basque với tỉ số 6-2. Chính quyền Liên Xô đã không giấu nổi cơn giận dữ để rồi đặt trọng trách lên vai Nikolai Starostin, huấn luyện viên của Spartak Moscow, niềm hy vọng cuối cùng cho việc cứu vãn thể diện của nền bóng đá Xô Viết.


Một người hùng khác cần được nhắc đến trong cuộc cách mạng chiến thuật của bóng đá Liên Xô đó chính là Boris Arkadyev, chiến lược gia được bổ nhiệm tại Dynamo Moscow vào năm 1936. Phải cho đến tận sau chuyến du đấu của ĐT xứ Basque, Arkadyev và hàng loạt chiến lược gia của Nga mới xem xét lại cách tiếp cận trận đấu.


WCkRhqC.jpg

M.U mất cả Jones và Bailly ở trận gặp Basel


Arkadyev đánh giá việc tìm ra phương án chiến thuật tốt quan trọng hơn là tập trung cải thiện chất lượng các cầu thủ. Ông quyết định cải tiến từ chiến thuật cũ và đến tháng 2 năm 1940 tại trại Gagry, HLV giàu tài năng này đã dùng hàng giờ để thuyết trình với cả đội về chiến thuật và cách để tiếp cận trận đấu.


Ông nhận ra một số đội bóng sử dụng các cầu thủ di chuyển vượt ra khỏi phạm vi về vị trí truyền thống trong tấn công, một số cầu thủ có sức mạnh hay tốc độ tốt hơn so với những người cùng thời đã chuyển vùng hoạt động trong tận đấu dù không nhận được yêu cầu từ phía huấn luyện viên. Các cầu thủ này phá vỡ những quan niệm truyền thống về di chuyển chiến thuật bằng cách hoán đổi vùng hoạt động trên sân. Điều đó khiến các hậu vệ đối phương khó theo kèm họ hơn.


Từ đó, Arkadyev khuyến khích các cầu thủ di chuyển tự do trong trận càng nhiều càng tốt. Dynamo Moscow nhanh chóng định hình được phong cách chơi bóng với nhịp độ cao cùng những đường chuyền ngắn, cố gắng phá vỡ hệ thống của đối phương mà giới truyền thông lúc ấy gọi là "rối loạn tổ chức". Các đội bóng cố gắng ngăn chặn Dynamo Moscow bằng cách theo người một kèm một nhưng Arkadyev càng yêu cầu các học trò di chuyển nhiều hơn nữa, phá vỡ hệ thống phòng ngự của đối phương và mở ra nhiều khoảng trống. Chi tiết xem tại https://ok.ru/nhandinhBddemhomnayngaymai


Cây viết Frank Butler nhận xét trên Daily Express: "Việc bắt chết các cầu thủ giống như trò giải đố của Trung Quốc, họ chỉ đơn giản là di chuyển chỗ này một chút, chỗ kia một chút nhưng điều đáng chú nhất là họ không bao giờ dẫm chân vị trí với những người khác". Kết quả đến ngay tức thì, Dynamo Moscow vô địch Liên Xô vào năm 1940 với chỉ 4 trận thua, hiệu số bàn thắng dương 44.


qfKyue0.jpg

Lindelof và Smalling nhiều khả năng sẽ được sử dụng trước Basel


Năm 1943, Arkadyev chuyển sang CDKA (nay là CSKA) Moscow. Ông tiếp tục trau dồi chiến thuật và chỉnh sửa lại theo thời gian để hiệu quả hơn. Một trong các tiền vệ được ông kéo xuống đá trong vai trò tiền vệ phòng ngự ở giữa sân, tạo thành một lớp lá chắn từ xa hỗ trợ ba hậu vệ trong phòng ngự. Một tiền đạo cũng được kéo xuống để lấp vị trí của người được bố trí đá tiền vệ phòng ngự khiến sơ đồ W-M dần chuyển thành 3-1-2-1-3. Nhiều sử gia bóng đá cho rằng Arkadyev là người đầu tiên phát minh ra hệ thống bốn hậu vệ.


Nền văn hóa tập thể của xã hội Xô Viết đương thời cũng ảnh hưởng rất lớn đến các đội bóng của Arkadyev. Sau mỗi trận đấu, các cầu thủ viết bản tự phê bình về mình trình diễn của bản thân cũng như đồng đội. Điều này giúp các cầu thủ tự hiểu về bản thân cũng như đồng đội xung quanh, góp phần tạo nên sự gắn kết trong đội. Khái niệm toàn đội là một khối thống nhất trong cả phòng ngự lẫn tấn công là một phần quan trọng với chiến thuật của Arkadyev. Đội bóng của ông gợi lên hình ảnh của đội tiền phong Xô Viết đương thời: Hiệu quả từ làm việc tập thể và sự siêng năng.

Đến thập niên 50, Gusztav Sebes kế thừa tư tưởng chiến thuật của Arkadyev và Yakushin để áp dụng cho đội tuyển Hungary. Giới báo chí đương thời gọi phong cách mà Sebes xây dựng cùng Hungary là "thứ bóng đá xã hội chủ nghĩa". Theo Tin vắn bóng đá 24h Sebes không chọn các cầu thủ tốt nhất cho từng vị trí mà chọn ra đội hình tốt nhất, tức là chọn ra một tập thể mà các cầu thủ có thể phối hợp với nhau tốt nhất. ĐT Hungary bất bại trong 5 năm liên tiếp, hủy diệt ĐT Anh ngay tại sân Wembley (London) với tỉ số 6-3, đánh dấu cho sự chôn vùi của chiến thuật W-M.


Link to comment
Share on other sites

Archived

This topic is now archived and is closed to further replies.

×
×
  • Create New...

Important Information

Terms of Use | Privacy Policy | Guidelines
We have placed cookies on your device to help make this website better. You can adjust your cookie settings, otherwise we'll assume you're okay to continue.